Các nguồn gây ô nhiễm và suy thoái đất

2013-11-29 18:40

1) Xói mòn, rửa trôi và sụt lở

            Hiện tượng xói mòn, rửa trôi và sụt lở đất thường xảy ra vào mùa mưa lũ, làm suy thoái đất và gây nhiều hậu quả xấu đối với môi trường và con người. 

        Xói mòn bề mặt: Đây là hiện tượng xói mòn và rửa trôi bề mặt đất, cuốn đi các chất mùn, chất dinh dưỡng... gây ra tình trạng bạc màu và thoái hoá đất. Sự xói mòn bề mặt đã xảy ra ở nhiều nơi trong tỉnh, tạo nên những vùng đất trống, đồi núi trọc hoặc đất trơ sỏi đá.

        Xói mòn xẻ rãnh: Khi đã vượt quá độ thấm nước của đất (hay đất bão hoà nước), nước mưa tập trung thành dòng theo 3 giai đoạn: i) tích tụ nước mưa trên mặt đất tạo thành các rãnh; ii) tập trung các dòng chảy nhỏ vào khe rãnh; iii) các khe nhỏ đổ vào suối và sông. Quá trình này lặp đi lặp lại trong thời gian dài sẽ làm cho các rãnh càng ngày càng sâu (có khi tới hàng chục mét). Đây chính là nguyên nhân gây sạt lở đất và lũ quét.

        Xói mòn do gió: Tốc độ gió vùng ven biển thuờng khá lớn, nên cát ven bờ bị gió dịch chuyển thành các cồn cát hoặc bay, nhảy xa hơn vào sâu trong đất liền, che phủ lên đất canh tác màu mỡ, che phủ đường giao thông và cả các công trình dân sinh... và hậu quả là làm giảm chất lượng đất, ảnh hưởng đến dân sinh. Mặt khác, gió còn cuốn đi những hạt bụi đất vùng bị bạc màu, phá vỡ cấu trúc tầng mặt và tạo những cơn lốc bụi di chuyển. Các đám bụi bị bóc mòn từ nơi này được gió di chuyển đến lắng đọng lại nơi khác dưới dạng bụi ''hoàng thổ''.

        Xói - lở và làm sụp đổ bờ sông: Đây là hiện tượng thuộc quá trình động lực của sông, gây ra những biến đổi về hình thái lòng sông và bãi bồi do tác động của chế độ thuỷ văn và hoạt động địa chất (xói mòn, tích tụ...). Quá trình xói lở bờ sông gồm 2 pha:

+ Pha một: Xói mòn chân bờ sông do dòng chảy kéo trôi các hạt đất ở bờ đi;

+ Pha hai: Sụp đổ bờ sông do quá trình trượt đất theo dạng cung tròn.

        Bình thường, các bờ sông là các sườn dốc tự nhiên luôn ở trạng thái ổn định. Song, nếu xảy ra pha 1, làm độ dốc bờ sông tăng lên, sẽ dẫn đến xói lở mạnh và sụp đổ bờ sông (pha 2). Sự sụp đổ bờ sông gây bồi lắng lòng sông và mất đất vùng bờ.

        Sự feralit hoá kết đá ong: Quá trình feralit hóa kết đá ong xảy ra phổ biến ở những vùng đồi tiếp giáp với đồng bằng. Quá trình này xảy ra do đặc điểm của quá trình thành tạo đất (đất xám bạc màu trên nền phù sa cổ thường xuất hiện kết vón đá ong) và dưới tác động của khí hậu. Hậu quả là làm đất trở nên “xương xẩu” và nghèo dinh dưỡng.

 

2) Phân bón và hoá chất bảo vệ thực vật

            Phân bón hóa học và HCBVTV đã góp phần quan trọng vào tăng năng suất cây trồng, nhưng do tình trạng lạm dụng quá mức và kém hiểu biết của người dân trong việc sử dụng phân bón hoá học và HCBVTV, nên đã dẫn đến tình trạng suy thoái đất nông nghiệp (do làm giảm tính chất cơ lý của đất, tích luỹ nhiều kim loại nặng trong đất, làm tăng độ chua của đất...) và tồn dư quá mức HCBVTV trong môi trường đất, đặc biệt là các HCBVTV nhóm clo (DDT, 666, 2,4-D...), tác hại đến hệ sinh thái nông nghiệp. 

 

3) Chất độc hoá học trong chiến tranh để lại

        Chất độc da cam là hỗn hợp tỷ lệ 1 : 1 của este n-butyl của 2 thuốc diệt cỏ 2,4-D và 2,4,5-T. Do hỗn hợp thuốc diệt cỏ đó thường được chứa trong các thùng dung tích khoảng 200 lít, bên ngoài có sơn các dải sọc màu da cam, nên người ta thường gọi chung là chất độc da cam. Mặt khác, thuốc diệt cỏ 2,4,5-T thường chứa nhiều dioxin, cỡ 2 – 40 mg/kg(Paul L. Sutton, 2002), nên người ta thường gọi chung là chất độc da cam/dioxin. Dioxin là một nhóm gồm 75 chất (hay 75 thành viên) và là một trong những nhóm chất độc và nguy hiểm nhất được biết hiện nay trên thế giới. Các chất thuộc nhóm Dioxin và nhiều thuốc trừ sâu clo hữu cơ (điển hình là nhóm DDT) đều thuộc 12 chất/nhóm chất ô nhiễm hữu cơ tồn lưu (POPs – Persistant Organic Pollutants) bị cấm sản xuất và sử dụng trên toàn thế giới (theo Công ước Stôckhôm, mà Việt Nam đã tham gia ký kết năm 2001 tại Thuỵ Điển). Trong nhóm Dioxin, chất độc nhất cũng được gọi là dioxin chứa 4 nguyên tử clo trong phân tử (tên hoá học là 2,3,7,8 - tetraclodibenzo para-dioxin, viết tắt là TCDD). Các chất dioxin tồn lưu rất lâu dài trong các thành phần môi trường, tan tốt trong mô mỡ động vật và do vậy, có khả năng tích luỹ sinh học và khuyếch đại sinh học trong chuỗi thức ăn, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khoẻ người và động vật.

        Theo báo cáo của Paul L. Sutton tại Hội thảo khoa học Việt - Mỹ về các tác động đến môi trường và sức khoẻ của chất độc da cam/dioxin tổ chức ở Việt Nam vào tháng 3/2002, trong những năm chiến tranh từ 1961 đến 1971, khoảng 8 triệu galon (tương đương khoảng 36 triệu lít) chất độc da cam đã được rải xuống Việt Nam. Trong số đó, khối lượng rải trên địa bàn tỉnh Quảng Trị (ở Cam Lộ, Thành phốĐông Hà, Thị trấnKhe Sanh và thị xãQuảng Trị) là 1.350.000 lít (chiếm 3,75% cả nước). Huyện Cam Lộ là một trong những vùng bị rải nhiều nhất ở tỉnh Quảng Trị (khoảng 460.000 lít, chiếm khoảng 34% toàn tỉnh). Hậu quả để lại là đất đai bị ô nhiễm do dioxin tồn lưu lâu dài trong đất, nhiều cánh rừng xanh tốt trước đây nay vẫn chưa thể phục hồi. Đến nay, tuy chưa có những điều tra, đánh giá đầy đủ tồn dư của chất độc da cam/dioxin và các tác động của chúng đến môi trường và sức khoẻ, nhưng di chứng do nhiễm chất độc da cam để lại rất nặng nề cho nhân dân vùng Cam Lộ, đặc biệt là ở các xã Cam Nghĩa, Cam Chính và Cam Thành.

4) Các chất thải từ các hoạt động công nghiệp

            Một số hoạt động công nghiệp làm phát sinh bụi, nước thải và chất thải rắn gây ô nhiễm môi trường đất (do không được thu gom và xử lý đúng quy định) như: bụi thải từ các nhà máy sản xuất xi măng, cơ sở sản xuất gạch ngói gây ô nhiễm đất khu vực lân cận; chất thải (nước thải và chất thải rắn) từ hoạt động sản xuất thép, cơ khí, gốm sứ, gia công kim loại, sửa chữa ôtô, xe máy... chứa nhiều kim loại nặng, dầu mỡ...; chất thải từ quá trình sản xuất giấy và bột giấy chứa nhiều chất hữu cơ khó phân huỷ, sunfua... tác hại đến vi sinh vật đất, chất lượng đất...   

5) Hoạt động sản xuất khác

        Hoạt động khai thác khoáng sản như khoáng ilmenit chứa titan làm phát sinh lượng lớn chất thải rắn (đất, cát, sỏi) che phủ nhiều vùng đất ven bờ, đồng thời làm tăng xâm nhập mặn từ biển vào các vùng khai thác làm nhiễm mặn đất và nước ngầm. Hoạt động nuôi tôm nước lợ/mặn vùng ven bờ cũng gây ra sự nhiễm mặn đất canh tác nông nghiệp. Sự nhiễm mặn tăng lên cũng có thể gây nhiễm phèn làm chua đất (hay suy giảm chất lượng đất).