Nữ bác học lừng danh nhất thế giới

2013-11-22 14:03

 I - Giới thiệu :

Marie Curie là nhà khoa học nữ đầu tiên đã được nhận hai giải Nô-ben. Bà đã dành trọn cuộc đời để nghiên cứu khoa học, và đã cống hiến trọn vẹn những thành tựu lớn cho nhân loại. Bà đã cùng chồng là Pie Quyri nghiên cứu và phát hiện ra nguyên tố mang tính phóng xạ Radium và đã được trao giải Nô-ben về Vật lý. Sau khi ông Pie qua đời, bà vẫn tiếp tục một mình nghiên cứu, và một lần nữa bà lại được nhận giải thưởng Nôben về Hoá học.

Suốt cuộc đời mình, cho đến khi trút hơi thở cuối cùng vào năm 1934, bà đã không ngừng nghiên cứu, đóng góp cho hạnh phúc của nhân loại.

Cuộc đời của nữ bác học Mari Quyri là một tấm gương sáng ngời về nhân cách của một nhà khoa học đầy tình yêu với đất nước, với khoa học chân chính.

II .- Cuộc đời & sự nghiệp

 1/ Tóm tắt :

Marie Curie (Maria Skłodowska-Curie; 7 tháng 11, 1867 – 4 tháng 7, 1934) là một nhà hóa học người Pháp gốc Ba Lan và một người đi đầu trong ngành tia X đã hai lần nhận giải Nobel (Vật lý năm 1903 và Hóa học năm 1911). Bà đã thành lập Viện Curie ở Paris và Warszawa

Marie Curie, nhà vật lý học hạt nhân đoạt giải Nobel, đã được bình chọn là nữ khoa học gia vĩ đại nhất mọi thời đại. Bà, người đã khám phá liệu pháp xạ trị, đã giành được hơn ¼ phiếu bình chọn (25,1%) - gần gấp đôi đối thủ gần nhất là Rosalind Franklin (14,2%), nhà vật lý sinh học Anh đã giúp khám phá cấu trúc ADN.

Marie Curie được bình chọn là nữ khoa học gia vĩ đại nhất trong mọi thời (Ảnh: PA)
Tiến sĩ Roger Highfield, tổng biên tập tạp chí New Scientist - tờ báo đưa ra cuộc thăm dò, nói: "Cuộc thăm dò chỉ ra nhu cầu quan trọng phải mừng và gây ý thức về nhiều nhà nữ khoa học là những người đã hình thành khoa học hiện đại kể từ Marie Curie - và là những người đang đóng góp lớn hơn bao giờ hết”.

Chương trình Oreal UNESCO "Vì phụ nữ trong khoa học" đã được thành lập cách đây mười năm dựa trên tiền đề “thế giới cần khoa học và khoa học cần phụ nữ”. Đây là một giải thưởng được lập ra để khuyến khích và làm nổi bật tầm quan trọng của việc phụ nữ tham gia vào khoa học, bằng cách tưởng thưởng các nhà nữ khoa học đầy hứa hẹn với các học bổng để giúp họ đi xa hơn trong nghiên cứu..

 

2/ Tiểu sử
Từ nhỏ, Marie Curie là một cô bé thông minh, hom học và rất yêu thích khoa học tự nhiên. Nhưng vì gia đình quá nghèo nên bà phải lao động để kiếm sống. Sau bao nhiêu vất vả gian nan cuối cùng bã đã thực hiện được ước mơ: Bước chân vào giảng đường đại học. Nhờ tài năng, trí thông minh và sự cần cù Mari Quyri đã lần lượt nhận được bằng cử nhân về vật lý và toán học.

Sinh ra ở Warszawa, Ba Lan, những năm đầu tiên của Marie không được vui lắm vì bốn năm sau khi chị bà qua đời, mẹ bà cũng qua đời. Marie rất chăm chỉ học tập, có khi bỏ cả ăn và ngủ để học. Sau khi học xong trung học, Marie bị suy nhược thần kinh một năm. Vì là phụ nữ, Marie không được nhận vào trường đại học nào ở Nga hay Ba Lan cho nên bà đã làm người dạy trẻ trong vài năm. Cuối cùng, với sự tài trợ của một bà chị, Marie đến Paris để học hóa học và vật lý tại trường Sorbonne, nơi mà sau này bà trở thành giảng viên phụ nữ đầu tiên.
Tại trường Sorbonne bà gặp và kết hôn với Pierre Curie, một giảng viên khác. Họ cùng nhau nghiên cứu các vật chất phóng xạ, đặc biệt là quặng urani uraninit, có tính chất kỳ lạ là phóng xạ hơn chất urani được chiết ra. Đến 1898 họ đã có giải thích hợp lý: uraninit có một chất phóng xạ hơn urani; ngày 26 tháng 12 Marie Curie tuyên bố sự hiện hữu của chất này.
Sau nhiều năm nghiên cứu họ đã tinh chế vài tấn uraninit, ngày càng tập trung các phần phóng xạ, và cuối cùng tách ra được chất muối clorua (radium chloride) và hai nguyên tố mới. Nguyên tố thứ nhất họ đặt tên là polonium theo tên quê hương của Marie (Pologne theo tiếng Pháp, Polska theo tiếng Ba Lan), và nguyên tố kia tên radium vì khả năng phóng xạ của nó (radiation).


Năm 1903 bà được nhận giải Nobel vật lý cùng với chồng Pierre Curie và Henri Becquerel cho các nghiên cứu về bức xạ. Bà là người phụ nữ đầu tiên nhận giải này.
Tám năm sau, bà nhận giải Nobel hóa học trong năm 1911 cho việc khám phá ra hai nguyên tố hóa học radium và polonium. Bà cố ý không lấy bằng sáng chế tiến trình tách radium, mà để các nhà nghiên cứu tự do sử dụng nó.
Bà là người đầu tiên đoạt, hay chia cùng người khác, hai giải Nobel. Bà là một trong hai người duy nhất đoạt hai giải Nobel trong hai lĩnh vực khác nhau (người kia là Linus Pauling).
Sau khi chồng bà qua đời, dư luận đồn thổi bà có một cuộc tình với nhà vật lý Paul Langevin, một người đã có vợ và bỏ vợ, gây ra một cuộc xì căng đan. Tuy bà là một nhà bác học được coi trọng tại Pháp, dư luận Pháp có phần bài ngoại vì bà là một người nước ngoài, từ một nơi ít người biết đến (lúc ấy Ba Lan là một phần của Nga) và có nhiều người gốc Do Thái (Marie là một người vô thần lớn lên trong một gia đình Công giáo, nhưng việc đó không ảnh hưởng đến dư luận). Hơn nữa, Pháp lúc đó hãy còn rung động về vụ Dreyfus. Điều ngẫu nhiên là sau này cháu trai của Paul Langevin là Michel đã kết hôn với cháu gái của Marie Curie là Hélène Langevin-Joliot.
Trong Đệ nhất thế chiến, bà vận động để có các máy chụp tia X di động để có thể điều trị các thương binh. Những máy này được cung cấp lực từ xạ khí radium, một khí không màu, phóng xạ từ radium, sau này được nhận ra là radon. Marie đã lấy khí này từ radium bà đã tinh chế. Ngay sau khi chiến tranh bắt đầu, bà đã bán giải Nobel làm bằng vàng của mình và của chồng để giúp trong nỗ lực chiến tranh.
Năm 1921, bà đã đến Hoa Kỳ để gây quỹ trong cuộc nghiên cứu radium. Bà được đón tiếp nồng hậu.
Trong những năm cuối cùng, bà thất vọng vì nhiều nhà thuốc và người làm mỹ dung đã không thận trọng khi dùng các vật chất phóng xạ.
Bà qua đời gần Sallanches, Pháp trong năm 1934 vì ung thư bạch cầu, chắc chắn là vì bà đã tiếp xúc với một số lượng bức xạ quá cao trong các nghiên cứu.
Con gái lớn nhất của bà, Irène Joliot-Curie, cũng được trao một giải Nobel hóa học trong năm 1935, một năm sau khi Marie Curie qua đời. Con gái út của bà, Eve Curie, viết một cuốn tiểu sử về Marie sau cái chết của mẹ mình.
Năm 1995, tro xương của bà được đưa vào điện Panthéon, bà trở thành người phụ nữ đầu tiên được an nghỉ tại đây vì cống hiến của mình.
Trong một thời gian siêu lạm phát trong đầu thập niên 1990, tờ giấy bạc 20.000 zloty của Ba Lan có hình bà. Hinh bà cũng đã hiện diện trong tờ 500 franc của Pháp cũng như nhiều tem thư và tiền kim loại.
Nguyên tố số 96, Curium, ký hiệu Cm, được đặt tên để tôn vinh bà và Pierre.