Những người đoạt giải Nobel Hóa học thập niên 2000

2013-12-02 16:51

    Gần nửa thế kỷ sau khi cha mình được trao giải Nobel, Roger D. Kornberg, giáo sư trường Đại Học Stanford cũng đã nhận được giải thưởng cho công trình nghiên cứu của mình về vấn đề tế bào đọc bộ gen như thế nào, trên cơ sở đó có thể giúp dẫn tới những cách chữa bệnh mới, giúp thiết lập những giai đoạn cho việc phát triển các loại thuốc chống ung thư, bệnh đau tim và những loại bệnh viêm nhiễm khác. Trong một cuộc họp báo, Kornberg  nói ứng dụng công trình của ông làm ra những kháng sinh tốt hơn để chữa bệnh, như bệnh lao và vài thập niên sau sẽ có những cách điều trị đặc biệt cho một số loại bệnh khác.
Một số công ty dược đang phát triển những loại thuốc trên cơ sở công trình nghiên cứu của ông, nhưng ông từ chối vì muốn có những nghiên cứu đặc biệt hơn trong việc điều trị bệnh ung thư.


    Kornberg được phần thưởng có giá trị 1,4 triệu đô la, sau khi 2 giải Nobel về vật lý và y học cũng được trao trong tuần. Người Mỹ đã chiến thắng và chia sẻ tất cả giải thưởng Nobel kể từ năm 1992. Lần cuối giải Nobel về hóa học được trao cho riêng một người là vào năm 1999.

    Cha của Kornberg, ông Arthur, đã được trao giải Nobel cho những nghiên cứu của ông về thông tin di truyền được chuyền như thế nào từ phân tử AND này sang phân tử AND khác. Bây giờ đã 88 tuổi, trả lời với phóng viên, ông nói con ông đã rất say mê công việc này. Ông mong chờ sự kiện này từ rất lâu, và cảm thấy rất tự hào về con mình.

    Gia đình Kornberg là trường hợp thứ 6 mà cả cha và con đều được trao giải Nobel. Trường hợp cha và con gái cùng đoạt giải là của Pierre Curie và Irene Joliot-Curie, giải về hóa học và vật lý. Marie Curie, mẹ của Irene và là vợ của Pierre, cũng đã được hai giải thưởng về hóa học và vật lý.

    Thông tin từ gen được sử dụng để tạo ra những phân tử được gọi là ARN thông tin. Những phân tử này như những con thoi qua lại đưa thông tin tới tế bào để sản sinh ra protein. Kể từ năm 2000, Kornberg đã xây dựng được một bức tranh chi tiết những phân tử ARN thông tin được tạo ra. Nhờ khả năng và sự khéo léo, ông đã đóng băng được giữa chừng của tiến trình sản xuất ARN, qua đó nắm bắt được đầy đủ quá trình sao chép này. Những sự thay đổi bất thường của quá trình sao chép là nguyên nhân dẫn đến một số bệnh tật ở người.

    Những người đoạt giải Nobel Hóa học thập niên 2000
Giải thưởng Nobel là một giải thưởng quốc tế trong lĩnh vực vật lý, hoá học, y học, văn học , khoa học kinh tế và hoà bình  để tưởng nhớ nhà khoa học Alfred Nobel, người đã sáng lập ra giải Nobel. Nobel (Thụy Điển) là một nhà hóa học, nhà công nghiệp học, người phát minh ra thuốc nổ  và ông muốn giải thưởng của ông phục vụ cho nhân loại.

Giải thưởng công bố hằng năm vào tháng 10 và được trao vào ngày 10 tháng 12, ngày kỷ niệm ngày mất của Nobel. Giải thưởng bao gồm tiền thưởng, một huy chương vàng và một giấy chứng nhận. Vào ngày 4 tháng 10 vừa qua giải thưởng Nobel Hóa học vừa được trao cho nhà khoa học Mỹ Roger D. Kornberg.

  • 2006: Roger D. Kornberg (Hoa Kỳ), nghiên cứu về việc tế bào lấy thông tin từ gene như thế nào để tạo ra protein.
  • * 2005: Yves Chauvin (Pháp), Robert H. Grubbs (Hoa Kỳ) và Richard R. Schrock (Hoa Kỳ),  phương pháp hoán vị trong tổng hợp các hợp chất hữu cơ.
  • 2004: Aaron Ciechanover (Israel), Avram Hershko (Israel và Hungary) và Irwin Rose (Hoa Kỳ), phân tách các chất prôtêin trong cơ thể con người, giúp giải thích hệ thống miễn nhiễm.
  • 2003: Peter Agre (Hoa Kỳ) và Roderick MacKinnon (Hoa Kỳ), khám phá và  khảo sát các Đường dẫn Nước và Ions trong các tế bào sinh vật.
  •  2002: John B. Fenn (Hoa Kỳ), Koichi Tanaka (Nhật Bản) và Kurt Wüthrich (Hoa Kỳ),phát triển các phương pháp phân tích mạnh, phục vụ nghiên cứu những phân tử lớn, phức tạp, trong đó có protein.
  • 2001: William Standish Knowles (Hoa Kỳ), Ryoji Noyori (Nhật Bản), nghiên cứu về phản ứng hydro hóa có xúc tác chiral  và K. Barry Sharpless (Hoa Kỳ), ông trình nghiên cứu về phản ứng oxy hóa có xúc tác chiral.
  • 2000: Alan J. Heeger (Hoa Kỳ), Alan G. MacDiarmid (Hoa Kỳ và New Zealand) và Hideki Shirakawa (Nhật Bản), khám phá và phát triển các polymer dẫn điện.