Những phản ứng hóa học phức tạp

2013-11-29 13:22

Năm 1806

    Cleman và Đêzocmơ đưa ra kết luận về sự tạo thành các hợp chất trung gian trong quá trình oxi hoá lưu huỳnh đioxit với sự có mặt của nitơ oxit.

Năm 1812

      Hemfri Đêvi đưa ra sơ đồ biểu diễn quá trình oxi hoá lưu huỳnh đioxit vớỉ sự có mặt.của nitơ đioxit, đồng thời chỉ ra sự hình thành một số sản phẩm trung gian.

Năm 1830

       Saclơ Haxparơ đơ la Rivơ (1770 - 1834) gặp hiện tượng gia tốc khơi mào khi hoà tan kim loại trong axit.

Năm 1844

      Nhà hoá học Đức Khrixtian Phriđric Senbâynơ (1799 - 1868) nghiên cứu tác dụng của các nguyên tử oxi hoạt động (thu được như một sản phẩm trung gian). Năm 1855, ông xây dựng lí thuyết về các quá trình oxi hoá, trong đó xét đến tác dụng trung gian của nguyên tử oxi hoạt động.

Năm 1845

Nhà khoa học Mĩ Đrecperơ phát hiện thấy sự gia tốc của phản ứng giữa hiđro và clo do ảnh hưởng của ánh sáng.

Năm 1851

      Nhà hoá học Đức Rôbecđơ Vinhem Bunzen (1811 - 1899) nghiên cứu tỉ mỉ về tương tác giữa hiđro và clo. Đồng thời ông dùng danh từ "hiện tượng cảm ứng hoá học" để chỉ loại phản ứng được gia tốc đó.

Năm 1857

      Ađônpho Baierơ (1835 - 1917) nghiên cứu một trong các phản ứng tự xúc tác đầu tiên, đó là phản ứng giữa brom với exit lactic.

Năm 1884

      Van Hôp phát hiện sự không phù hợp giữa sự phụ thuộc về toán học đối với tốc độ c.ủa một số phản ứng đơn giản và kết quả thực nghiệm khi nghiên cứu một số phản ứng ba phân tử, bốn phân tử và nhiều phân tử. Nguyên nhân của sự không phù hợp đó cũng là do tính phức tạp của cơ chế phản ứng. Tuy nhiên, Van Hôp đã giải thích sự sai lệch đó bằng ảnh hưởng của một số hiện tượng phụ.

Năm 1887

       Đimitri Pêtrovic Cônôvalôp (1856 - 1929) đưa ra công thức toán học tính tốc độ của phản ứng tự xúc tác.

Năm 1894

       Vlađimia Alêchxanđrôvich Kischiacôpxki nêu ra cách phân loại động học đầu tiên về các phản ứng hoá học phức tạp. Đến nay, về cơ bản sự phân loại này vẫn được sử dụng.Người ta đã xác định chính xác rằng : đa số các phản ứng hoá học là phản ứng phức tạp, và phương trình hoá học chỉ biểu thị quá trình một cách tổng quát, mà không mô tả tiến trình và cơ chế của phản ứng, Ngày nay, khí nghiên cứu động học của phản ứng bất kì nào, người ta căn cứ vào phương trình cụ thể.