Hóa học và sức khỏe

Cách làm kem chống nắng đơn giản tại nhà

2013-11-22 19:15

     Nếu bạn lo ngại các loại mỹ phẩm, kem chống nắng…trên thị trường có chứa các hóa chất gây hại cho sức khỏe. Thì bạn hoàn toàn có thể tự làm mỹ phẩm cho mình tại nhà. Sau đây là các bước làm kem chống nắng với 3 thành phần đơn giản sau vừa dễ dàng, lại tự nhiên và không gây tốn kém. Hơn nữa, chúng lại khiến cơ thể bạn có mùi hương thơm quyến rũ.

Nguyên liệu:

 - 1 chén dầu ôliu hoặc dầu ăn tự nhiên

 - 28 g sáp ong tinh khiết

 - oxit kẽm hay dioxide titanium

                     

(3 nguyên liệu cần để tự làm kem chống nắng)

 

Dụng cụ:

 - 1 cái xoong

 - Thìa để khuấy

 - Bếp gas

 - Lọ thủy tinh hoặc lọ gốm có nắp đậy để lưu trữ

Các bước làm:

B1:  Đổ một chén dầu ô liu nóng vào chảo và đun trên bếp với một ngọn lửa nhỏ liu riu.

               

 

B2:   Thêm 1 miếng sáp ong vào để chúng tan chảy ra cùng với nước dầu ô liu.

 

                

 

B3:   Hãy khuấy liên tục cho đến khi sáp ong hoàn toàn tan trong dầu nóng

B4:   Sau đó, thêm 1-2 muỗng canh bột oxit kẽm. Tiếp tục đảo hỗn hợp đều trong chảo liên tục để đảm bảo chúng được pha trộn hoàn toàn.

              

 

B5:  Tắt bếp và để hỗn hợp trong chảo nguội trở lại. Sau đó đổ hỗn hợp kem chống nắng tự chế được vào một lọ thủy tinh hoặc gốm để lưu trữ

                 

Nếu bạn muốn đổ hỗn hợp kem chống nắng vào một chiếc lọ có cổ hẹp thì phải đảm bảo chiếc lọ này có thể bóp được kem chống nắng mỗi khi muốn sử dụng.

                

B6:  Bảo quản kem chống nắng ở nhiệt độ phòng hoặc lưu trữ trong môi trường khô, mát.

Lưu ý:

 -  Nếu bạn không thể tìm thấy kem oxit kẽm từ hiệu thuốc thì hãy thử thay thế bằng những loại dầu tự nhiên. Chỉ đảm bảo rằng, các thành phần này hoàn toàn an toàn để ăn được thì chúng cũng an toàn trên da của bạn.

 -   Nếu muốn, bạn có thể thêm một vài giọt tinh dầu tạo mùi hương dễ chịu cho kem chống nắng. Để làm điều này, chỉ cần kiểm tra các đặc tính của tinh dầu nhằm đảm bảo nó phù hợp khi ra nắng mà không có tác dụng phụ.

 -  Sáp ong làm cho các sản phẩm kem chống nắng bị nhớt nhưng lại có tác dụng dưỡng da. Vì thế, bạn có thể thử thay đổi tỷ lệ dầu sáp thích hợp.

 -  Để tránh rủi ro làm hỏng kem chống nắng, bạn có thể đặt kem chống nắng trong ngăn mát tủ lạnh.. Để xa tầm với của trẻ em và những vật nuôi tò mò.

 

Có đến hơn 3000 chất độc trong khói thuốc

2013-11-22 13:36
    Văn phòng Phẫu thuật viên trưởng (*) thuộc Bộ Y tế và Dịch vụ Nhân sinh Hoa Kỳ vừa công bố hôm 9/12 bản Báo cáo tổng thể, nêu những bằng chứng mới nhất về khói thuốc lá gây nguy hại trực tiếp lên cơ thế con người, là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến các bệnh ung thư, suy tim, phổi và nhiều bệnh nguy hiểm khác, bao gồm khả năng sinh sản ở cả nam và nữ.
 
    Báo cáo nhấn mạnh cần có những hành động cấp thiết của cộng đồng và các nhà làm chính sách để bảo vệ sức khỏe người dân. 
    Giảm hút thuốc là một trong những biện pháp hiệu quả nhất, cần được làm ngay, để nâng cao sức khỏe cộng đồng và ngăn chặn những căn bệnh có tỉ lệ gây tử vong cao nhất và chi phí điều trị đắt đỏ nhất cho xã hội. Ảnh: Word Press.Tác hại tức thì từ việc hút thuốc và hít phải khói thuốc
 
    Bản thông báo kết luận rằng việc các nhà sản xuất có “cải biến” thuốc lá, chẳng hạn như đầu lọc, thêm chất thơm hay các thành phần hóa chất phụ gia, thực chất chỉ càng làm tăng tính gây nghiện của thuốc lá. Thuốc lá điếu ngày nay thậm chí còn mang nhiều chất nicotine lên não hơn, gây nghiện cho thanh thiếu niên nhanh hơn và khiến cho người hút càng khó bỏ hơn. 
 
    Ngành công nghiệp thuốc lá, trong hàng thập kỉ nay, cùng với nhiều chiêu thức đánh lừa người tiêu dùng (nay đã bị cấm ở Mỹ) bằng các chú dẫn trên vỏ bao thuốc như “nhẹ”, “hàm lượng tar thấp” đã ngăn chặn và làm giảm các nỗ lực chống tác hại của thuốc lá, bản báo cáo nêu rõ. 
 
    Gần 50 năm sau báo cáo đầu tiên của Văn phòng Phẫu thuật viên trưởng năm 1964, báo cáo lần này là cảnh báo mạnh mẽ về tác hại gây tử vong và gây nghiện nguy hiểm thực sự của từng điếu thuốc lá. Nó nhấn mạnh một thông điệp không thể nhầm lẫn cho các nhà quản lý ở mọi cấp rằng giảm hút thuốc là một trong những biện pháp hiệu quả nhất, cần được làm ngay để nâng cao sức khỏe cộng đồng và ngăn chặn những căn bệnh có tỉ lệ gây tử vong cao nhất và chi phí điều trị đắt đỏ nhất cho xã hội. 
 
    Báo cáo cũng đưa ra khuyến cáo thiết thực cho nhóm thanh thiếu niên và người hút thuốc ở Mỹ: “Nếu bạn không hút thuốc, đừng bao giờ thử. Nếu bạn đang hút thuốc, cố gắng bỏ thuốc ngay lập tức và tìm đến các biện pháp hỗ trợ bỏ thuốc”. 
 
    Điều này không chỉ đúng cho những người hút thuốc thường xuyên, mà cho cả 22% người không hút thuốc hàng ngày, mà cho cả những người chỉ hút thuốc “xã giao” và nghĩ rằng họ chẳng gặp hại gì. 
 
    Thông điệp của Báo cáo rất rõ ràng: Bạn đang gặp nguy hiểm. Chẳng có khái niệm nào gọi là “mức độ không nguy hiểm” của khói thuốc. Bạn có thể nhiễm bệnh ngay cả khi không phải là một người nghiện nặng hoặc có thâm niên hút thuốc. 
 
    Báo cáo đánh giá tầm quan trọng của các chương trình hành động ngăn ngừa thanh thiếu niên hút thuốc, giúp người đang hút cai nghiện và bảo vệ quyền được hít thở không khí trong lành của mọi người. 
 
    Mặc dù đang trong quá trình thực hiện mục tiêu "nơi làm việc và nơi cộng cộng trong nhà không khói thuốc", có đến  4/10 người không hút thuốc – trong đó có một nửa là số trẻ em từ 3 đến 11 tuổi – vẫn đang chịu ảnh hưởng tác hại của thuốc lá, theo điều tra của Trung tâm Kiểm soát dịch bệnh và Phòng chống Hoa Kỳ (CDC). 
 
    Lẽ ra, không ai phải chịu đựng khói thuốc ở nơi làm việc và các nơi công cộng trong nhà. Đặc biệt là các bậc cha mẹ cần phải đảm bảo là ở nhà, trên xe hơi và những nơi thường xuyên có trẻ con là nơi không khói thuốc. 
 
    Các nhà làm chính sách các cấp phải nỗ lực gấp đôi để thực thi các biện pháp giảm tiêu thụ thuốc lá và bảo vệ người hút thuốc thụ động (người hít phải khói thuốc). 
 
    Chính quyền liên bang phải tài trợ và nhanh chóng thực thi một cách có hiệu quả kế hoạch phòng chống thuốc lá mới mà Bộ trưởng Y tế và Dịch vụ Nhân sinh Hoa Kỳ, Kathleen Sebelius, đã thông báo tháng trước. Kế hoạch bao gồm một chương trình truyền thông quốc gia ngăn ngừa thanh thiếu niên hút thuốc và khuyến khích người đang hút bỏ thuốc, kéo dài các hỗ trợ và bảo hiểm sức khỏe cho người muốn cai nghiện, xiết chặt hoạt động sản xuất và tiếp thị thuốc lá, đồng thời đẩy mạnh các nghiên cứu giúp thúc đẩy các chiến lược giảm tiêu thụ thuốc lá. 
 
    Cục quản lý Thực phẩm và Dược phẩm phải tiếp tục thực thi mạnh mẽ quyền hạn của mình để chấn chỉnh hoạt động sản xuất, tiếp thị và bán thuốc lá, nhằm bảo đảm trẻ em không bị ảnh hưởng bởi các tác hại này và giảm thiếu các hậu quả tai hại của thuốc lá tới cộng đồng. 
 
    Chính quyền phải tăng cường nỗ lực giảm tiêu thụ thuốc lá bằng cách tăng thuế, nghiêm túc thực thi luật về môi trường làm việc không khói thuốc và chi trả đầy đủ cho chương trình phòng chống thuốc lá khuyến nghị bởi Trung tâm Kiểm soát dịch bệnh và Phòng chống Hoa Kỳ CDC. 
 
    Một điểm yếu rất đáng tiếc mà Báo cáo vạch ra là Chính quyền Mỹ đã cắt giảm quỹ phòng chống thuốc lá 28% trong 3 năm qua và hiện nay chỉ chi cho những chương trình này mức thấp nhất kể từ 1999, khi lần đầu tiên họ nhận được tiền bồi thường từ vụ kiện chống ngành công nghiệp thuốc lá. 
 
    Trong năm tài chính 2011, Liên bang sẽ thu 25,3 tỉ USD từ tiền bồi thường và thuế thuốc lá, nhưng sẽ chỉ chi 2% số đó, tức 517,9 triệu USD – cho các chương trình bảo vệ thanh thiếu niên khỏi thuốc lá và giúp cai nghiện thuốc. 
 
 
    Việt Nam cũng cần biện pháp đủ mạnh để thực hiện cấm hút thuốc tại nơi công cộng trong nhà. 
Phát hiện thêm 3000 chất độc trong khói thuốc lá
 
    Báo cáo tổng thể của văn phòng Phẫu thuật viên trưởng cũng nêu chi tiết các hậu quả nghiêm trọng về sức khỏe, ngay cả đối với những người hút thuốc thụ động không thường xuyên. Trong đó bao gồm: 
 
1.      Khói thuốc lá chứa hơn 7.000 hóa chất độc hại, với hàng trăm loại cực độc và ít nhất có tới 70 loại gây ung thư. (Đây là con số mới được công bố và thừa nhận. Các nghiên cứu trước đây mới chỉ tìm ra khoảng 4.000 loại chất độc hại trong khói thuốc lá - ND). 
 
2.      Mọi tiếp xúc với các hóa chất gây ung thư trong khói thuốc lá có thể phá hủy DNA theo chiều hướng làm tăng khả năng mắc ung thư. 
 
3.      Tác hại đối với người hút thuốc thụ động diễn ra ngay tức thì lên hệ tim mạch, phá hủy các ven máu, dẫn tới máu đông và tăng nguy cơ suy tim và đột quỵ. 
 
4.      Khói thuốc khiến phụ nữ khó có thai hơn và có thể gây sảy thai, sinh non và sinh thiếu cân. Nó cũng giảm khả năng sinh sản ở nam giới. 
 
Bên cạnh đó, báo cáo cung cấp những thông tin đau lòng: việc hút thuốc lá đã giết chết 400.000 người Mỹ mỗi năm và làm tốn đến gần 100 tỉ USD trong các chi phí điều trị. 
 
Báo cáo nhấn mạnh việc cần thiết phải có những quyết tâm chính trị và hành động cấp thiết để đánh bại thuốc lá. 

Vitamin E

2013-11-22 13:23

LỊCH SỬ

Vitamin E được khám phá vào năm 1922 khi các nhà khoa học phát hiện thấy chuột cống được nuôi dưỡng với một chế độ ăn thiếu Vitamin E sẽ nảy sinh các vấn đề liên quan đến sinh sản. Khi Vitamin E được công nhận như là một hợp chất có tác dụng phục hồi khả năng sinh sản, các nhà khoa học đặt cho nó tên hóa học là tocopherol, từ tiếng Hy Lạp, có nghĩa là “sinh con”.

CẤU TRÚC, CHỨC NĂNG

 
    Vitamin E là một Vitamin tan trong dầu, trong thiên nhiên gồm 8 dạng khác nhau của 2 hợp chất: tocopherol và tocotrienol. Trong thực vật, tocopherol được phân phối rộng rãi nhất, có cấu trúc vòng với một chuỗi dài bão hòa bên cạnh. Tocopherol gồm 4 dạng: alpha-, beta-, gamma-, và delta-, chúng được phân biệt bằng số và vị trí nhóm methyl trên vòng. Alpha tocopherol là thành phần có hoạt tính sinh học nhiều nhất của Vitamin E. Tocotrienol cũng có 4 dạng, alpha-, beta-, gamma-, và delta-, được phân biệt với tocopherol nhờ chuỗi bên cạnh bất bão hòa. Cũng còn được gọi dưới tên isoprenoid, các tocotrienol ít được phân bố rộng rãi trong thiên nhiên.
    Dạng thiên nhiên của Vitamin E, dưới tên gọi RRR-alpha-tocopherol (trước đây được gọi là d-alpha-tocopherol) được tìm thấy từ dầu thực vật và là một đồng phân lập thể đơn lẻ. Dạng có nguồn gốc tổng hợp của Vitamin E chính là tất cả các racemic-alpha-tocopherol, là một hỗn hợp gồm 8 đồng phân quang học. Cả hai dạng tự nhiên lẫn dạng tổng hợp của Vitamin E đều có cùng một công thức phân tử, nhưng khác nhau về cấu trúc trong không gian 3 chiều. Các cơ quan và các mô trong cơ thể, bao gồm phổi, gan, tế bào hồng cầu, huyết tương và não ưu tiên thu nhận Vitamin E nguồn gốc tự nhiên hơn so với Vitamin E nguồn gốc tổng hợp.
    Vitamin E được đo bằng đương lượng RRR-alpha-tocopherol (a, TE ). Một a, TE là hoạt tính của 1mg RRR-alpha-tocopherol. 1mg Vitamin E dạng tự nhiên tương đương với 1,49 IU và 1mg dạng tổng hợp tương đương với 1 IU.
Các nghiên cứu đã khẳng định ở người dạng tự nhiên của Vitamin E có hoạt tính sinh học lớn hơn dạng tổng hợp. Trong 2 nghiên cứu độc lập ở người, nghiên cứu thứ nhất trên những người lớn khỏe mạnh và 22 bệnh nhân phẫu thuật chọn lọc và nghiên cứu thứ hai trên phụ nữ mang thai, cho thấy dạng tự nhiên của Vitamin E được lưu giữ lại tốt hơn 2 đến 3 lần so với dạng tổng hợp.
    Chức năng chính của Vitamin E trong cơ thể là tác động như là chất chống oxy hóa- nó được xem là hàng phòng thủ trước tiên chống lại quá trình peroxyd hóa lipid. Vitamin E tác động ở mức độ tế bào để bảo vệ màng tế bào khỏi sự tấn công của gốc tự do làm tổn hại đến màng tế bào – nó thực sự hội nhập vào lớp Lipide kép xung quanh tế bào. Như là một chất thu dọn gốc tự do, Vitamin E bảo vệ các acid béo không bão hòa (PUFA) và cholesterol trong màng tế bào. Các tế bào hồng cầu (RBCs) đặt biệt có hàm lượng PUFA cao và Vitamin E có nhiệm vụ bảo vệ RBCs khỏi bị tán huyết. Như là một chất chống oxy hóa nội tế bào, Vitamin E tiết kiệm selenium, chất này chứa trong enzym glutathion peroxydase. Đây là thành phần khác của hệ thống ngòng thủ chống oxy hóa của cơ thể và bảo vệ những chất tương tợ chất béo khác như Vitamin A khỏi bị phân hủy.
    Thêm vào tác động oxy hóa quan trọng của nó, Vitamin E còn điều hòa sự ngưng tập tiểu cầu bằng tác động ức chế hoạt động của cyclooxygenase và làm giảm sự sinh tổng hợp prostaglandin (thromboxan). Vitamin E cũng có những tác động khác trong cơ thể bao gồm sự chuyển hóa nucleic và protein, chức năng phân bào và sản xuất hormon. Như thuật ngữ “Vitamin sinh sản” được các nhà nghiên cứu trước đây đặt ra, Vitamin E cũng cần thiết cho sự sinh sản bình thường.

SỰ HẤP THU-SỰ THIẾU HỤT

 
    Vitamin E, giống như những Vitamin tan trong dầu khác, được hấp thu cùng với các acid béo và triglicerides và tùy thuộc vào sự hiện diện của dầu mỡ trong chế độ ăn uống cũng như tác động của acid mật. Từ ruột non, Vitamin E được kết thành các chylomicron để vận chuyển qua hệ bạch huyết, tại đó nó được cho là để “tẩy sạch” trên các tế bào như tế bào hồng cầu. Cùng với vết còn lại của chylomicron, Vitamin E được qua gan và sau đó phân phối vào mô của cơ thể thông qua lipoprotein tỷ trọng rất thấp (VLDLs), lipprotein tỷ trọng thấp (LDLs) và lipprotein tỷ trọng cao (HDLs). Vitamin E được phân phối đồng đều hơn các Vitamin tan trong dầu khác trong mô cơ thể, với nồng độ cao tìm thấy trong huyết tương, gan, não và mô ưa mỡ (đặc biệt mỡ nâu).
    Sự thiếu hụt Vitamin E lâm sàng thì hiếm, và liên quan đến sự kém hấp thu và tính bất thường trong vận chuyển lipid. Những người có chứng kém hấp thu chất béo như bệnh tiêu chảy mỡ, chứng xơ hóa nang và hội chứng sau khi cắt bỏ dạ dày có thể có sự thiếu hụt Vitamin E mãn tính và trầm trọng.Những trẻ sơ sinh thiếu tháng hoặc trẻ có trọng lượng khi sinh ra rất thấp với dự trữ của cơ thể thấp và suy kém hấp thu tại ruột non cũng như tốc độ phát triển gia tăng cũng có nguy cơ thiếu hụt Vitamin E. Người với những rối loạn tế bào hồng cầu di truyền, ví dụ bệnh hồng cầu liềm và những bệnh nhân bị bệnh tán huyết, cũng có thể bị thiếu hụt Vitamin E. Ở người lớn, triệu chứng và những dấu hiệu thiếu hụt bao gồm sự hoái hóa cơ, vỡ tế bào hồng cầu( dẫn đến thiếu máu tán huyết)và vô sinh. Các triệu chứng đi kèm với hội chứng thần kinh tiến triển từ việc thiếu hụt Vitamin E, bao gồm bệnh học thần kinh tiến triển với sự vắng mặt hay biến đổi các phản xạ, sự mất điều hòa, yếu chi và sự mất cảm giác ở cánh tay và chân.

NGUỒN- NHU CẦU

 
    Nguồn Vitamin E từ chế độ ăn uống bao gồm dầu thực vật, quả hạch và hạt hướng dương, mầm lúa mì và hạt ngũ cốc nói chung. Hàm lượng alpha-tocopherol, chất có hoạt tính sinh học cao nhất trong 4 tocopherol, thay đổi ở các ngồn thực phẩm. Sự chế biến thực phẩm làm giảm lượng tocopherol trong thực phẩm sau khi chế biến, ví dụ 2/3 Vitamin E có thể bị mất đi trong quá trình sản xuất dầu thực vật thương mại. Trong quá trình xay bột thông thường, mầm lúa mì chứa nhiều Vitamin E nhất, bị loại bỏ. Quá trình tẩy trắng bột loại đi hầu hết những gì còn lại của vitamin nầy.
    Thực phẩm nguồn gốc động vật như thịt, cá, mỡ động vật cũng như hầu hết trái cây và rau quả là những nguồn nghèo Vitamin E. Tuy vậy, rau lá xanh bao gồm rau bina và cải xoăn có những lượng Vitamin E đáng kể.
Nhu cầu Vitamin E gia tăng khi PUFA ăn vào gia tăng và có thể thay đổi gấp 4 lần, từ 5mg/ngày đến hơn 20mg/ngày. RDA đối với Vitamin E dựa trên lượng đầy đủ thu nhận vào của Vitamin nầy trong chế độ ăn uống cân bằng là 10mg/d đối với nam giới và 8mg/d đối với phụ nữ. Lượng Vitamin thu nhận cao hơn được đề nghị khi Vitamin này được dùng như chất dinh dưỡng hỗ trợ cho việc bảo vệ cơ thể chống lại các bệnh mãn tính bao gồm bệnh tim, ung thư và đái tháo đường.

CÁC TÌNH TRẠNG MÀ VITAMIN E CÓ THỂ HỖ TRỢ

 
    Nghiên cứu về tác động bảo vệ của Vitamin E chống lại các bệnh mãn tính, đặc biệt là bệnh tim, tiểu đường và ung thư đã tập trung vào hoạt tính chống oxy hóa mạnh của Vitamin E để bảo vệ màng tế bào. Các nhà nghiên cứu cũng cho thấy công hiệu của Vitamin E trong việc gia tăng đáp ứng miễn dịch ở người lớn tuổi. Sử dụng Vitamin E cũng có thể làm chậm sự tiến triển của bệnh Alzheimer. Tương tự, Vitamin này cũng cho thấy nó là một chất bổ sung quan trọng đối với phụ nữ. Các nhà nghiên cứu chỉ ra rằng Vitamin E có thể điều chỉnh các triệu chứng bốc hỏa và các phiền toái do mãn kinh khác.
Bệnh tim
 
    Một cơ chế liên quan đến bệnh tim là sự phát triển và tiến triển của chứng vữa xơ động mạch. Sự hẹp vách động mạch đi kèm với sự tạo vữa mạch gây ra cho sự oxy hóa các lipprotein tỉ trọng thấp. Vitamin E là một chất chống oxy hóa mạnh, nó ức chế sự oxy hóa các LDL, và vì vậy có thể có vai trò đáng kể trong việc ngăn cản bệnh tim.
Các nhà nghiên cứu đã nghiên cứu vai trò của Vitamin E trong bệnh tim, giả thiết cho rằng liều cao Vitamin E có thể làm giảm nguy cơ bệnh này.
Trong 2 nghiên cứu dịch tể học quy mô lớn, một bao gồm gần 40000 người đàn ông làm việc trong ngành y tế và một bao gồm gần 90000 nữ y tá được chẩn đoán không mắc bệnh tim hoặc cao cholesterol trước đó, các nhà nghiên cứu tìm thấy rằng dùng Vitamin E từ các chế phẩm bổ sung thì giảm nguy cơ mắc bệnh mạch vành.
    Trong nghiên cứu trên những người đàn ông làm việc trong ngành y tế kéo dài 4 năm, những người này được cho dùng nhiều hơn 100-249IU Vitamin hàng ngày trong ít nhất 2 năm có một nguy cơ bị bệnh tim thấp hơn 37%. Tương tự trong nghiên cứu trên các nữ y tá trong 8 năm, bổ sung hằng ngày ít nhất 100IU Vitamin E , đã giảm khoảng 40% nguy cơ mắc bệnh tim ở những người này.
Mặc dù 2 nghiên cứu này là nghiên cứu dựa vào quan sát, nhưng một thử nghiệm lâm sàng sau đó đã khẳng định lợi điểm của Vitamin E trong việc chống lại bệnh tim.
    Trong một nghiên cứu mù đôi, đối chứng với giả dược, 2000 bệnh nhân được khẳng định có bệnh tim trước được cho dùng giả dược hoặc chế phẩm bổ sung với liều hoặc 800IU hoặc 400IU hàng ngày. Chỉ sau một năm trị liệu, bệnh nhân ở nhóm dùng chế phẩm bổ sung có tỉ lệ nhồi máu cơ tim không tử vong giảm 77%.
    Liệu pháp Vitamin E có lẽ có lợi trong chứng đi cách hồi do bệnh mạch máu ngoại biên. Những bệnh nhân trong các nghiên cứu lâm sàng nhận 300mg Vitamin E và tham dự vào một chương trình luyện tập, sau 4-6 tháng những người này thực hiện tốt hơn những bệnh nhân không nhận chế phẩm bổ sung trên thử nghiệm đi bộ.
Ung thư
 
Các gốc tự do có vai trò trong khởi phát và phát triển ung thư. Như là một chất thu dọn gốc tự do, Vitamin E trung hòa chúng và có thể có vai trò trong việc phòng ngừa ung thư.
    Vitamin E dường như làm giảm nguy cơ của nhiều loại ung thư, bao gồm ung thư tiền liệt tuyến, các ung thư ở miệng và ung thư ruột kết. Một nghiên cứu trên 29000 người đàn ông Phần Lan tuổi từ 50-69 dùng bổ sung hàng ngày 50mg Vitamin E trong 5 đến 8 năm tỉ lệ ung thư tiền liệt tuyến thấp hơn 32% và nguy cơ tử vong vì bệnh này thấp hơn 41%. Lý thuyết về tác động bảo vệ của Vitamin E theo các nhà nghiên cứu này bao gồm:
 
 
· Bảo vệ chống lại sự tổn hại do các gốc tự do bằng tác động chống oxy hóa.
· Tác động tăng cường hệ miễn dịch.
· Làm chậm lại hệ enzym liên quan đến việc làm tăng tốc độ phát triển của tế bào ung thư.
Đái tháo đường
 
Stress oxy hóa liên quan đến sự tạo thành gốc tự do và sự peroxy hóa của màng tế bào làm ảnh hưởng đến tính lưu động của màng. Tính lưu động của màng bị biến đổi có thể dẫn đến việc chuyển vận glucose kém, một yếu tố trong nguyên nhân gây đái tháo đường.
Vitamin E dường như cải thiện tác động của insulin ở người bị đái tháo đường. Như là tác động của một chất chống oxy hóa, nó có thể bảo vệ cấu trúc màng tế bào lỏng lẻo khỏi sự gia tăng peroxy hóa lipide và ngăn cản sự hư hỏng chức năng của các tác nhân vận chuyển glucose. Các công trình nghiên cứu về tác động của Vitamin E trên bệnh nhân đái tháo đường đã sử dụng khoảng liều từ 100 IU đến 900 IU. Trong một thử nghiệm lâm sàng, nhóm người đái tháo đường đã điều trị nhận 100 IU Vitamin E, và những bệnh nhân này cho thấy giảm 10% lượng hemoglobin nhiễm glucose và giảm 24% nồng độ glucose.
Khả năng miễn dịch
 
Người ta thấy rằng Vitamin E làm gia tăng hoạt động của hệ miễn dịch có thể do 2 cơ chế: (1)giảm sự tổng hợp prostaglandin và (2) giảm sự tạo thành gốc tự do. Sự gia tăng hoạt động của hệ miễn dịch có thể ngăn cản các tình trạng thoái hóa đi kèm với tuổi già. Trong một nghiên cứu cho thấy dùng liều cao hàng ngày Vitamin E làm tăng đáp ứng của hệ miễn dịch ở 88 người lớn khỏe mạnh trên 65 tuổi. Nhóm người lớn tuổi được lựa chọn ngẫu nhiên này được cho dùng hoặc các liều bổ sung Vitamin E 60, 200 hoặc 800mg hoặc giả dược. Những người trong nhóm nhận 200mg cho thấy chức năng của tế bào T được gia tăng là tối ưu.
Bệnh Alzheimer
 
Các nhà khoa học đang nghiên cứu vai trò của Vitamin E trong việc làm chậm tiến triển của bệnh Alzheimer; về mặt lý thuyết bệnh này có lẽ được gây bởi sự tổn thương oxy hóa các tế bào thần kinh. Trong một nghiên cứu, người ta thử nghiệm tác động của Vitamin E, selegiline, giả dược, hoặc sự kết hợp Vitamin E và dược phẩm trên những bệnh nhân Alzheimer và tìm thấy rằng Vitamin E làm giảm số người cần nhập viện, mặc dù tử vong không giảm ở nhóm điều trị bằng Vitamin .
Triệu chứng mãn kinh
 
Cơn bốc hỏa là triệu chứng khó chịu và phổ biến ở phụ nữ mãn kinh. Các nghiên cứu trong những năm 1940 nhận thấy rằng Vitamin E có hiệu quả trong việc giảm các triệu chứng vận mạch đi kèm lúc mãn kinh, nhưng không có những nghiên cứu lâm sàng nào gần đây khẳng định điều này. Tuy vậy, nhiều phụ nữ thấy rằng các triệu chứng đỏ bừng và bốc hỏa có giảm khi dùng bổ sung Vitamin E với liều 400-800IU mỗi ngày. Vitamin E cũng có thể làm giảm các triệu chứng liên quan đến hội chứng tiền kinh, đặc biệt trong bệnh xơ nang tuyến vú (FBD). Hiện tượng u vú lành tính này là một tình trạng manh tính chu kỳ, chúng thường xảy ra trước khi hành kinh và có thể được làm giảm với các liều Vitamin E 600IU/ ngày.

CHẾ PHẨM BỔ SUNG : CÁC DẠNG CÓ GIÁ TRỊ

 
    Một liều Vitamin E điều trị hàng ngày 100IU hoặc nhiều hơn thì khó có được chỉ từ nguồn thực phẩm, ví dụ, 100 IU Vitamin E từ thức ăn sẽ bằng 7 tách đậu phộng và 400IU Vitamin E sẽ tương đương với 2qt dầu bắp. Vì vậy các nghiên cứu phải sử dụng Vitamin E ở dạng chế phẩm bổ sung.
Theo các nghiên cứu, dạng tự nhiên của Vitamin E điều trị, d-alpha-tocopherol là dạng có hoạt tính sinh học nhiều hơn và là dạng được cơ thể hấp thu tốt nhất. Tuy vậy một báo cáo nghiên cứu khác lại cho rằng dạng gamma-tocopherol của Vitamin E có lẽ là dạng hiệu quả hơn trong việc làm hạn chế những tổn hại đối với chất béo. Các nghiên cứu lâm sàng đã không khẳng định những hệ quả từ điều này trong nghiên cứu invitro. Các chế phẩm bổ sung Vitamin E được liệt kê như tocopherol hoặc tocopheryl. Dạng tocopheryl có thể có hạn dùng nhiều hơn, và dạng tocopherol được hấp thụ tốt hơn, nhưng những sự khác nhau này thì không có ý nghĩa. Cả 2 dạng tocopherol và tocopheryl đều có hoạt tính khi dùng uống, nhưng chỉ có tocopherol được hấp thu khi sử dụng tại chỗ. D-alpha tocopherol acetate là dầu Vitamin E, thường được sử dụng dưới dạng nang gelatin. Cả 2 dạng đều được hấp thu như nhau.
    Cả 2 dạng Vitamin E tan trong nước và tan trong dầu đều có giá trị. Dạng tan trong nước đắt hơn đáng kể, nhưng các nghiên cứu đã không chứng minh được rằng nó được hấp thu tốt hơn dạng tan trong dầu. Trong các nghiên cứu trên bệnh nhân bị u xơ tạo nang – những người này có các vấn đề về kém hấp thu chất béo do sự yếu kém của tuyến tụy và cần phải có sự bổ sung Vitamin E – người ta không thấy có lợi điểm đáng kể khi những người này được cho dùng dạng chế phẩm bổ sung Vitamin E tan trong nước.

MỨC LIỀU-ĐỘC TÍNH

 
    Độc tính của Vitamin E thì hiếm: 50%-70% liều hàng ngày được thải ra phân. Liều hàng ngày ở người lớn 600-800 IU alpha-tocopherol cho thấy không có những hậu quả về sức khỏe ngắn hạn hoặc dài hạn.
    Mức liều Vitamin E cần để bảo vệ PUFAs (các acid béo không bão hòa) chống lại tổn thương do oxy hóa ít nhất là từ 0,4-0,8mg Vitamin E / mỗi g PUFA. Những lượng lớn hơn Vitamin E cũng có thể được yêu cầu (1,5mg/g) trong các chế độ ăn uống có nồng độ PUFAs trung bình cao hơn. Các nhà nghiên cứu sự dinh dưỡng ở người định mức nhu cầu Vitamin E căn cứ vào việc ngăn ngừa bệnh mãn tính, đề nghị lượng Vitamin E đưa vào cơ thể hàng ngày là 135-150 IU. Hoạt động chống oxy hóa của Vitamin E thể hiện ở 40 IU/ngày, với một tác động phụ thuộc liều được ghi nhận ở liều lên đến 800IU/ngày. Vitamin E 200-400 IU/ngày làm giảm sự kết dính tiểu cầu ở thành mạch.

TƯƠNG TÁC THUỐC- CHẤT DINH DƯỠNG

 
    Vitamin E có thể gia tăng tác động của thuốc chống đông, Coumadin® hoặc các chất pha loãng máu loại indandione. Vitamin E cũng có thể hổ trợ cho tác động ức chế sự kết tập tiểu cầu của asprin.
Sắt vô cơ (sulfat sắt) tiêu hủy Vitamin E , nhưng các phức sắt hữu cơ (ví dụ sắt gluconate, peptonate, citrate hay fumarate) không có bất cứ tác động nào trên Vitamin E. Ở người thiếu máu thiếu sắt, Vitamin E làm giảm tác động của sự bổ sung sắt. Cholestyramine, colestipol và sucrafate có thể làm giảm sự hấp thu Vitamin E . Dầu khoáng cũng có thể làm giảm sự hấp thu Vitamin E.
    Các đối tượng có nguy cơ thiếu hụt Vitamin E
 
 
· Người mắc bệnh kém hấp thu chất béo
· Bệnh tiêu chảy mỡ
· Xơ hóa tạo nang
· Rối loạn tụy tạng
· Trẻ sinh thiếu tháng và trẻ sơ sinh trọng lượng lúc sinh thấp
· Bệnh nhân thẩm phân phúc mạc
· Bệnh nhân bệnh về máu di truyền (ví dụ bệnh thiếu máu hồng cầu liềm)

Melamine là gì? Và Melamine có phải là một độc tố?

2013-11-22 13:17
1. Melamine là gì?
    Về cơ bản Melamine là một bazơ hữu co, có công thức hoá học là C3H6N6, danh pháp theo IUPAC là 1,3,5-triazine-2,4,6-triamine.
    Melamine là một trime của cyanamide. Giống như cyanamide nó có đến 66% khối lượng Nitơ trong phân tử.
    Melamine cũng là một metabolite của cyromazine, một thành phần trong thuốc trừ sâu hại. melamine được chuyển hoá từ cyromazine trong cơ thể động, thực vật.
2. Melamine có phải là một độc tố gây hại?
    Hiện tại không có nhiều nghiên cứu cho thấy độc tính của melamine có thể gây hại cho con người. Nghiên cứu ở động vật cho thấy rằng melamine không chuyển hoá ở chuột và được thải ra nguyên xi. Các nghiên cứu ở động vật cho thấy rằng LD50 của melamine ở chuột > 3000 mg/kg.
    Tuy nhiên, gần đây với các chứng nghiệm lâm sàng cho thấy Melamine có thể dẫn đến tác hại như sỏi bàng quang, suy thận, sỏi thận, có thể gây ung thư bàng quang. Nhất là từ sau vụ việc nhiều trẻ em ở TQ sau khi dùng sữa có chứa Melamine dẫn đến bị suy thận hoặc sỏi thận, hoặc tử cong sau một thời gian sử dụng.
    Do đặc tính phân tử của Melamine có chứa nhiều Nitơ nên dễ được sử dụng làm tăng độ đạm "ảo" cho thực phẩm, nhất là trong thực phẩm chăn nuôi.
Tác hại của melamine đến sức khỏe người trưởng thành còn chưa được nhiều công trìng nghiên cứu, tuy nhiên hiện tại tác hại của melamine đến trẻ em làm điều không thể xem thường.

Các chất hoá học trong tỏi có tác dụng chữa bệnh như thế nào?

2013-11-21 19:15

    Hành và tỏi là những gia vị cho nhiều món ăn nhưng từ lâu cũng đã được biết đến như là những vị thuốc. Tỏi đã từng dùng làm thuốc chữa chứng phát ban, viêm bạch cầu, viêm phổi và rối loạn đường ruột trước khi có những biệt dược đặc hiệu.

    Ngày nay người ta đã hiểu biết khá chi tiết về thành phần hoá học trong hành, tỏi. Hàng trăm hợp chất đã được phân lập và phân tích cấu trúc cũng như nghiên cứu về dược lý. Những hợp chất quan trọng nhất lấy từ hành, tỏi thường chứa từ một hoặc nhiều nguyên tử lưu huỳnh (S) trong cấu trúc. Đó là các hợp chất thiosunfua, polisunfua. Chúng có mùi và hoạt tính sinh học cao. Tuy vậy, cho đến gần đây những bí hiểm về cơ chế tác dụng sinh học của nhiều hoạt chất mới được tìm ra. Chẳng hạn như phát hiện ra chất etyletan disunfinat có tác dụng ngăn ngừa bệnh ung thư. Y học đã khẳng định hàm lượng nitrit cao trong dạ dày là một độc tố liên quan đến sự xuất hiện ung thư dạ dày. Thế mà xét nghiệm đã cho thấy người có thói quên ăn tỏi sống, sau khi ăn xong, hàm lượng nitrit trong dạ dày giảm hẳn. Người ta cũng đã chứng minh được tác dụng ức chế phát triển ung thư của các hợp chất polisunfua không no. Chẳng hạn như chất ajoen là một hợp chất chứa 3 nhân chiết tách từ tỏi có tác dụng diệt tế bào ung thư lympho. Chất diallyl diunfua còn có khả năng làm gia tăng sinh trưởng các enzym khử độc.

    Tỏi còn tác dụng hạ hàm lượng mỡ và cholesterol trong máu. Những người có bệnh tim nếu thường xuyên sử dụng tinh dầu tỏi sẽ làm giảm nguy cơ nhồi máu cơ tim hay nghẽn mạch bởi chất ajoen và dithin có trong tinh dầu tỏi. Tác dụng ức chế kết tụ tiểu cầu là do các chất adenosin, allixin, ajoen và các polysunfua khác có trong tỏi.

    Sau khi ăn tỏi, hơi thở có mùi khó chịu, đó là mùi của các hợp chất allylmetyl sunfua, disunfua, diallylsunfua; 2-poropen thiol.

Xoa tỏi dưới gan bàn chân thì sau vài giờ có thể phát hiện mùi tỏi trong hơn thở, lí do là chất allixin sau khi thấm qua da có thể tan trong mỡ và hấp thụ trong hệ lympha, không bị phân huỷ trong môi trường không chứa cistein và protein và thoát ra theo đường bài tiết. Còn ăn tỏi thì allixin sẽ phản ứng lập tức với các nhóm cistein chuyển thành những chất ức chế sinh hoá quan trọng.

    Như vậy, tỏi vừa là gia vị, vừa là một vị thuốc quý.

Văn hoá trầu cau có ý nghĩa hoá học và nhân văn như thế nào ?

2013-11-21 18:53

Truyền thuyết dân gian "trầu cau" được lưu truyền từ đời Văn Lang đến nay. Ngày nay còn rất ít người ăn trầu nhưng miếng trầu đã đi vào đời sống văn hoá, tình cảm và phong tục của dân tộc ta hàng mấy ngàn năm văn hiến. Văn hoá "Trầu cau" mang tính độc đáo của người Việt Nam. Tích truyện "Trầu cau' đã được điện ảnh Việt Nam dựng thành phim truyện hấp dẫn, còn ca khúc về tích "trầu cau" đã có từ trước cách mạng tháng 8 (1945)

· Ý nghĩa hoá học :

Trước đây người ta thường mời nhau ăn miếng trầu cho vui, cho ấm người, cho thơm miệng... có đúng ăn trầu sẽ làm cho vui, ấm và sạch miệng hay không ?

Lá trầu có chứa từ 1,8 - 2,4% tinh dầu, chủ yếu là chavibetol và chavicol cùng một số phenolic khác. Nước ép lá trầu có tác dụng tăng áp, giảm mạch ngoại vi và tính kháng sinh rất mạnh. Đông y dùng trầu đánh gió, chữa cảm cúm, bỏng, chữa vết thương.

Trong hạt cau (y học cổ truyền gọi là - đinh lang) có khoảng 18% tanin, 14% chất dầu, 2% muối khoáng và các hợp chất ancaloit, đặc biệt là arecolin (C6H13NO2) chiếm 0,5%. Chính arecolin có tác dụng làm tiết nước bọt, làm co đồng tử mắt, kích thích thần kinh phó giao cảm.

Trầu cau không thể thiếu vôi, không có vôi miếng trầu không thể chuyển sang màu đỏ. Vôi là chất kiềm, khi tác dụng với arecolin, chất này có tính độc và chuyển thành arecaidin không độc mà có tác dụng gây hưng phấn.

Người ta thường thêm vào miếng trầu một lát vỏ rễ cây chay. Vỏ có tác dụng tăng thêm tanin cho miếng trầu. Nhai miếng trầu khoảng 15 - 20 phút, bắt đầu "giập bã trầu", ở nhiệt độ cơ thể 370C, các phản ứng hoá học, phản ứng sinh màu giữa các phenolic, arecolin, arecaidin, tanin và các chất khác trong môi trường kiềm đã xảy ra. Chính các phản ứng này tạo cho người ăn trầu cảm giác say, hưng phấn, ấm áp làm cho da mặt hồng hào, môi đỏ thắm, chống cảm cúm, diệt khuẩn, làm sạch miệng, làm chặt chân răng. Ăn trầu chính là một cách trang điểm của người phụ nữ trước đây. Miếng trầu làm cho đôi má thêm hồng, đôi môi thêm thắm, cho lòng thêm say.

· Ý nghĩa nhân văn:

Lá trầu, quả cau là hai thứ không thể thiếu trong các đồ tế lễ, thờ cúng thần thánh, tổ tiên. Người ta thường nói "hương, hoa, phù, tửu, bạc lễ chi nghi" (hương, hoa, trầu, rươu, bạc lễ là nghi thức).

Miếng trầu có mặt trong mọi lễ nghi, cưới hỏi, giỗ chạp, tang gia... đã trở thành phong tục, truyền thống của người Việt Nam. Ngày nay tuy không ăn trầu nhưng trong các lễ nghi người ta vẫn giữ phong tục truyền thống nghĩa là vẫn có trầu, cau. Lễ dạm hỏi còn gọi là lễ "bỏ cơi trầu".

Miếng trầu mang rất nhiều ý nghĩa:

· Miếng trầu dùng trong giao tiếp, miếng trầu là đầu câu chuyện:

"Tiện đây ăn một miếng trầu

Hỏi rằng quê quán ở đâu chăng là "

· Miếng trầu dùng để trao duyên:

"Trầu này trầu quế, trầu hoa

Trầu Loan, trầu Phượng, trầu ta, trầu mình"

· Miếng trầu dùng để trách người bạn trai chậm chân:

"Ba đồng một mớ trầu cay

Sao anh không hỏi những ngày còn không

Bây giờ em đã có chồng

Như là cá chậu, chim lồng biết sao "

· Miếng trầu dùng để khuyên nhủ lứa đôi

"Có phải duyên nhau thì thắm lại

Đừng xanh như lá, bạc như vôi"

· Miếng trầu dùng nói khi giúp đỡ việc cưới xin:

"Giúp cho quan tám tiền cheo

Quan năm tiền cưới lại đèo buồng cau"

· Miếng trầu dùng để trang điểm:

"Trầu này trầu tính, trầu tình

Ăn vào thêm đỏ môi mình, môi ta"

· Miếng trầu dùng để đo thời gian:

"Láng giềng đã đỏ đèn đâu

Chờ em ăn giập bã trầu em sang

Đôi ta cùng ở một làng

Cùng đi một ngõ vội vàng chi anh"

Hoặc là:

"Ngồi chơi mới giập bã trầu

Mong anh nán lại, đôi câu giãi bày"

Ông cha ta đã dùng miếng trầu để diễn đạt các cung bậc của tình cảm.

Cây cau, giàn giầu (trầu) đã đi vào văn thơ ca.

Thơ Nguyễn Bính:

"Nhà em có một giàn giầu

Nhà tôi có một hàng cau liên phòng

Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông

Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào ? "

Và:

"Cái ngày em đi lấy chồng

Giầu không dây chẳng buồn leo vào giàn"

Dân ca quan họ Bắc Ninh"

"Cau non sánh với trầu vàng

Con non kết bạn, trầu vàng kết duyên"

Hay:

"Tương tư môi đỏ dạ sầu

Chưa ăn mà đã thấy say miếng trầu"

Và:

"Say nhau quan họ càng say

Nâng niu một miếng trầu này mời nhau

Đã thương đến tận vườn cau

Đã yêu xin gửi miếng trầu làm tin"

<< 5 | 6 | 7 | 8 | 9 >>

 

Có thể bạn quan tâm