Hóa dược
Máu nhân tạo từ sâu biển
2013-11-22 19:29Tiến sỹ Silaghi-Dumitrescu đến từ Đại học Babeş-Bolyai, Cluj-Napoca, người đứng đầu nghiên cứu, cho biết thành phần chính của loại máu nhân tạo này bao gồm muối, nước, một loại protein có tên là hemerythrin được chiết xuất từ sâu biển.
Trong quá trình nghiên cứu và chế tạo máu nhân tạo, các nhà khoa học nhận thấy protein hemerythrin có thể chịu được các áp lực cơ học hay hóa học, khác với các loại protein khác như hemoglobin, Science World Report cho hay.
Máu nhân tạo có khả năng thay thế chức năng của máu thật như cung cấp oxy cho các mô và tế bào của cơ thể trong một vài giờ hoặc có thể cả ngày. Thử nghiệm máu nhân tạo tổng hợp đối với cơ thể chuột cũng không phát hiện bất kỳ tác dụng phụ nào xảy ra.
Với việc chế tạo thành công máu nhân tạo tổng hợp, các nhà nghiên cứu sẽ thực hiện kế hoạch tạo ra "máu khẩn cấp", sử dụng protein hemerythrin và muối, có khả năng vận chuyển được dễ dàng và chuyển thành máu nhân tạo khi cho thêm nước.
Việc thử nghiệm lâm sàng loại máu này với cơ thể người có thể sẽ được tiến hành sau một hoặc hai năm tới.
Nhóm nghiên cứu hi vọng loại máu nhân tạo này sẽ góp phần đáp ứng tình trạng thiếu hụt nguồn máu dữ trữ phụ vụ cho y học trong các trường hợp khẩn cấp.
Trước đó, nhiều nhà khoa học đã cố gắng tạo ra máu nhân tạo trong khoảng 6 năm, nhưng chỉ tạo ra được dạng chất lỏng không có khả năng chịu được sức ép cơ học và hóa học.
Hy vọng mới cho điều trị bệnh ung thư
2013-11-22 19:25Các nhà khoa học thuộc Viện Nghiên cứu Nhi khoa Australia vừa tìm ra một phương pháp thử máu không những giúp chẩn đoán sớm bệnh ung thư mà còn giúp điều trị một số bệnh ung thư.
Theo các nhà khoa học, đây thực sự là bước đột phá trong việc chẩn đoán và điều trị ung thư trong 30 năm qua, nhất là đối với ung thư não và xương.
Khi phát hiện bị ung thư não, thông thường người bệnh chỉ có thể sống thêm một năm.
Tiến trình xét nghiệm để tìm ra bệnh thường kéo dài nhiều tháng và bác sĩ phải thực hiện nhiều cuộc phẫu thuật để có được bệnh phẩm của khối u trong não. Nhưng mới đây, Viện Nghiên cứu Nhi khoa Australia đã phát hiện phương pháp mới xét nghiệm máu có thể giúp chẩn đoán sớm những loại ung thư này.
Bác sĩ Jeremy Henson cho biết phương pháp mới có thể xác định được khoảng 15% loại bệnh ung thư, đặc biệt là ung thư xương, não, mô liên kết, ung thư vú và phổi. Với phương pháp này, bác sĩ chỉ cần lấy mẫu máu như mọi xét nghiệm máu thông thường.
Phương pháp mới cho kết quả nhanh hơn trước rất nhiều và các nhà nghiên cứu hy vọng phương pháp này sẽ giúp họ đẩy nhanh tiến độ nghiên cứu các loại thuốc mới chữa trị ung thư, nhất là ung thư não và xương.
Hội đồng Ung thư New South Wales cho rằng thí nghiệm mang tính đột phá này có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với bệnh nhân ung thư não và ung thư xương.
Theo Giám đốc Hội đồng, tiến sĩ Andrew Penman, nhìn lại công tác điều trị ung thư trong suốt 30 năm qua, người ta thấy không có tiến triển gì nhiều. Riêng đối với ung thư não, trong 40 năm qua chỉ có hai thành tựu y học quan trọng. Vì thế, phương pháp mới này đã mở ra hy vọng lớn trong việc điều trị ung thư, nhất là đối với ung thư não.
Hướng điều trị trầm cảm mới với phân tử ANA - 12
2013-11-22 19:19Suy nhược thần kinh là một loại bệnh, vì những lí do nào đó mà các chức năng của não bị rối loạn. Nhìn chung cơ chế hoạt động của các loại thuốc chống suy nhược thần kinh là hình thành một hiệu ứng trên các cơ quan vận chuyển neuron (đặc biệt là sérotonine và noradrénaline).
Chứng lo âu và suy nhược thần kinh là các vấn đề thường gặp của con người, thường kèm theo những cơn đau kinh niên. Hiệu quả của các loại thuốc hiện nay đối với những cơn đau này (các thuốc chống suy nhược thần kinh, thuốc giảm đau) vẫn còn rất hạn chế. Các nhà nghiên cứu của phòng thí nghiệm về Cải Tiến Phương Pháp Điều Trị Trong Y Khoa (CNRS/ trường đại học Strasbourg) và đại học Paris Descartes vừa tìm ra một phân tử độc đáo (ANA-12) với các kết quả thử nghiệm trên chuột về khả năng chống lo âu và trầm cảm rất tốt. Phát hiện mới này mở ra nhiều phương pháp điều trị y khoa mới và triển vọng trong lĩnh vực này.
Bằng cách tiếp cận hoàn toàn mới khác hẳn những phương pháp điều trị đang được sử dụng hiện nay, các nhà khoa học đã tìm ra một phân tử độc đáo (ANA-12), mở ra những phương pháp điều trị y khoa mới và đầy triển vọng đối với chứng lo âu và stress. Phân tử này (điều chế từ việc sàng lọc bằng máy tính hơn 3 triệu phân tử) ngăn cản một cách chọn lọc sự nhận biết của protein tăng trưởng thần kinh (BDNF, nguyên nhân gây ra các cơn đau mãn tính) với cơ quan thụ cảm của nó (TrkB). Nó được coi như một ligand có khối lượng phân tử nhỏ của cơ quan cảm thụ TrkB; nó liên kết trực tiếp và chọn lọc lên TrkB, làm mất hoạt tính của TrkB trong việc gặp BDNF. Điều này được minh họa như hình vẽ sau:
Trong thí nghiệm trên chuột, ANA-12 cho thấy các tính chất chống lo âu và trầm cảm rất đáng kể. Thực tế cho thấy phân tử này cũng cho kết quả như trên trong các mô hình thí nghiệm trên động vật đối với những cơn đau mãn tính.
Khả năng biến tính phân tử mới này (đối với các phân tử nhỏ) bằng việc tập trung phát triển và duy trì các neuron đã mở ra một loạt các cuộc nghiên cứu lớn của các nhà sinh học về thần kinh, những người nghiên cứu chức năng của BDNF và cơ quan thụ cảm của nó (TrkB) trong rất nhiều bệnh lý (chứng lo âu, suy nhược thần kinh, nghiện, động kinh, và các chứng bệnh thoái hóa thần kinh). Phân tử này cho ra hướng nghiên cứu lâu dài về một phương pháp điều trị y khoa triển vọng mới, cho phép điều trị tốt hơn các chứng bệnh tâm lý liên quan đến thần kinh.
Câu chuyện về thuốc giảm đau
2013-11-22 19:02 Sau hơn 100 năm "làm mưa làm gió" trên thị trường thuốc giảm đau, bắt đầu từ thập niên 1960, Aspirin đã phải "thoái vị" và nhường ngôi lại cho Paracetamol. Paracetamol được nhiều người ưa thích vì tỏ ra có nhiều lợi điểm hơn Aspirin.
Thế nhưng đến nay, câu chuyện về Paracetamol vẫn là một vấn đề còn tiếp tục gây tranh cãi.
Có phải thần dược xoa dịu nỗi đau?
Tại Úc, Paracetamol luôn giữ ngôi vị "độc tôn" trong các thuốc giảm đau. Paracetamol có nhiều tên thương mại khác nhau và trong đó có những biệt dược đã đi vào "huyền thoại", như Panadol, Panamax, Tylenol, Dymaton...
Trong năm 2001, người trưởng thành ở Úc đã uống hơn 1 tỷ viên Paracetamol. Ðấy là chưa tính tới 406 triệu viên mà Paracetamol được trộn chung với Codeine hoặc các loại thuốc khác và 7 triệu viên do bác sĩ kê toa. Riêng trẻ em Úc đã tiêu thụ hơn 4 triệu liều Paracetamol dành cho trẻ em.
Sỡ dĩ Paracetamol bán chạy như "tôm tươi" vì nó được người ta biết đến như một trong những loại thuốc giảm đau an toàn và hiệu quả nhất, tin rằng Paracetamol không làm hại bao tử cũng như không có những biến chứng nguy hiểm như phần nhiều các loại thuốc giảm đau khác. Bởi vậy mỗi khi nhức đầu, nhức răng, đau họng, nhức mỏi, thậm chí khi bị thấp khớp, nóng sốt... người ta thường tự chữa bằng Paracetamol. Thuốc lại vừa rẻ tiền, dễ mua, có thể tìm thấy ở bất cứ siêu thị hoặc tiệm thuốc tây nào trên toàn nước Úc.
Coi vậy mà không phải vậy
Tuy nhiên những đặc tính "ăn tiền" kể trên chỉ là "bề nổi". Trong những năm gần đây, người ta ngày càng quan ngại về những mặt trái của Paracetamol. Dẫn chứng qua số người nhập viện vì Paracetamol ở tiểu bang Victoria từ năm 1998-2001 đã tăng gấp 4 lần.
Theo số liệu của Trung tâm nghiên cứu tai nạn của ÐH. Monash (Monash University?s Accident Research Center) thì những người ở độ tuổi trưởng thành nhập viện vì Paracetamol cao hơn những người nhập viện vì sử dụng ma túy quá liều gấp 5 lần. Ðối với trẻ em, có 127 trường hợp dùng Paracetamol quá liều phải đưa vào bệnh viện Royal Children?s Hospital.
BS. Alison Ritter thuộc Trung tâm Turning point Alcohol & Drug Center gọi đây là một "nạn dịch thầm lặng". Theo số liệu của Trung tâm, những trường hợp dùng thuốc quá liều (bao gồm các loại thuốc do bác sĩ kê toa cũng như thuốc bán trong siêu thị) đã tăng gấp đôi kể từ năm 1998. Thậm chí những năm gần đây, giới trẻ Úc còn dùng Paracetamol để... "chấm dứt nợ trần".
Theo số liệu thống kê chính thức, tại tiểu bang Victoria, phân nửa số bệnh nhân từ 15-24 tuổi dùng Paracetamol quá liều là do cố ý tự tử. Có hai lý do chính dẫn đến hiện tượng này: Thứ nhất, cho tới nay, một số người vẫn lầm tưởng Paracetamol có tác dụng gây ngủ và sẽ đem tới cho họ một cái chết êm ái.
Thật ra uống Paracetamol rất khó chết. Còn nếu chết thì là một cái chết thê thảm và kéo dài. Paracetamol sẽ làm hại gan và mãi 3 hoặc 4 ngày sau đó mới hủy hoại gan ở mức tối đa.
Nguyên nhân tiếp theo là việc mua Paracetamol rất dễ. Ðó là chưa kể một số siêu thị đang đẩy mạnh việc bán thuốc giảm đau bằng nhiều hình thức khuyến mãi. Ngoài vấn đề cố ý dùng Paracetamol để tự tử, rất nhiều bệnh nhân được đưa vào viện cấp cứu vì uống quá liều do sơ ý, đặc biệt là trẻ em.
Tại tiểu bang Victoria, hàng năm trung bình có 75 trẻ em dưới 5 tuổi được đưa vào bệnh viện vì Paracetamol. Loại thuốc này cũng dẫn đầu danh sách những thứ mà trẻ em hay vô ý bỏ vào miệng nuốt. Bên cạnh đó, đa số các bậc cha mẹ đều nghĩ rằng Paracetamol rất an toàn và cứ việc cho các em uống.
Năm ngoái, bà Jan Stevenson (một chuyên viên điều tra những vụ tử vong bất đắc kỳ tử hoặc khả nghi) được giao nhiệm vụ tìm hiểu nguyên nhân tử vong của em Wade Dunn, 13 tuổi. Wade đã phải trải qua một ca mổ và sau đó được cho uống 32g Paracetamol trong hơn 2 tuần. Sau đó em qua đời tại một bệnh viện ở Sydney mà theo điều tra là do Paracetamol.
BS. Ted O? Loughin thuộc bệnh viện Nhi Westmead ở Sydney đã điều trị 17 ca trẻ em bị hoại tử gan nặng (trong đó có 5 em qua đời) đã lên tiếng cảnh giác: "Tuy Paracetamol là một loại thuốc hữu ích và ít xảy ra tai biến, nhưng nếu lạm dụng có thể sẽ dẫn đến những hậu quả chết người". Trong 4 năm qua, Bộ Y tế tiểu bang New South Wales (NSW) đã gởi thông báo cho giới bác sĩ về việc sử dụng Paracetamol, bao gồm những khuyến cáo về liều lượng và cảnh giác các bệnh nhân uống Paracetamol phải được tái khám sau 48 giờ.
Việc dùng paracetamol ở một số nước
Tại Anh, việc bán Paracetamol trong vỉ được thực hiện từ năm 1998 nhằm ngăn chặn tình trạng dùng quá liều. Trước đó, tại Anh, mỗi năm trung bình có 560 người tử vong và 70.000 người phải nhập viện vì Paracetamol. Hiện nay tại Anh, cơ quan y tế đã yêu cầu giảm số lượng viên trong mỗi hộp thuốc và phải in những khuyến cáo mạnh mẽ hơn ngoài vỏ hộp. Các biện pháp trên đã dẫn đến những kết quả bất ngờ.
Các cuộc nghiên cứu mới nhất cho thấy tỷ lệ người tử vong vì Paracetamol ở Anh đã giảm 21%. Số người nhập viện vì bị Paracetamol làm hư hại gan giảm 30%. Số người dùng Paracetamol quá liều giảm 21% và những trường hợp dùng Paracetamol liều cao giảm 64%.
Còn tại Úc thì sao? Năm 1998, khi những biện pháp mới liên quan đến Paracetamol bắt đầu được áp dụng ở Anh. Ủy ban xét duyệt y khoa Úc cũng lên tiếng cảnh báo các lọ thuốc Paracetamol đã tạo điều kiện dễ dàng cho những người muốn tự tử và sẽ vô cùng nguy hiểm khi rơi vào tay trẻ em.
Chính vì vậy việc ngưng bán Paracetamol trong lọ là một biện pháp cần thiết. Hiểu rõ hậu quả tai hại của Paracetamol, Jan Stevenson đề nghị chỉ nên bán Paracetamol trong tiệm thuốc tây và hạn chế việc tiếp thị thuốc. Bà còn yêu cầu chính quyền tiểu bang NSW cử một Ủy ban duyệt xét lại việc sử dụng và lạm dụng Paracetamol. Ðồng thời cần đưa ra những chỉ dẫn rõ ràng nhằm ngăn chặn hậu quả của Paracetamol đối với trẻ em.
Tháng 4/2003, đề nghị giới hạn việc bán Paracetamol trong tiệm thuốc tây đã được đưa ra bàn thảo. Tuy nhiên Bộ Y tế Liên bang cho rằng đề nghị này mang tính "kỳ thị" những người không có điều kiện đến nhà thuốc tây hoặc cần giảm đau trong thời gian mà tiệm thuốc đã đóng cửa.
Phát ngôn viên Bộ Y tế đã phát biểu: "Paracetamol, nếu sử dụng đúng đắn là loại thuốc rất an toàn, do đó Bộ Y tế sẽ không giới hạn chỉ bán Paracetamol trong tiệm thuốc tây. Bộ sẽ thông tin cho giới tiêu thụ về những nguy hiểm khi dùng quá liều". Tháng 6/2003, Thư ký Ủy ban Quốc hội đặc trách về y tế Trish Worth đã phát động một chiến dịch thông tin lớn về sự nguy hiểm khi lạm dụng Paracetamol: "Mọi người nghĩ rằng do được bán tràn lan trong siêu thị nên Paracetamol rất an toàn và không hại gì khi uống nhiều hơn liều chỉ dẫn ngoài hộp thuốc".
Chiến dịch thông tin của Trish Worth diễn ra cùng lúc với Ủy ban xét duyệt y khoa nhắc lại đề nghị chỉ bán Paracetamol trong vỉ chứ không nên bán trong lọ. Nhưng đề nghị này đã bị bác bỏ vì gặp phải sự chống đối của ngành dược phẩm Úc.
Tại tiểu bang Victoria, một tổ chức ngăn chặn nạn tự tử (Victorian Task Force on Suicide Prevention) đã đưa ra đề nghị chỉ nên bán Paracetamol trong tiệm thuốc tây. Ðây là kết quả cuộc nghiên cứu của tổ chức này về vấn nạn tự tử, đặc biệt là ở giới trẻ - Cho rằng các thiếu nữ thường tìm cách tự tử bằng Paracetamol vì có thể mua nó một cách rất dễ dàng.
Bà Susan Sawger, Giám đốc Trung tâm sức khỏe thanh thiếu niên tiểu bang Victoria (Victorian Adolescent Health Center) cũng đồng ý với giải pháp trên. Theo bà, tình trạng bày bán Paracetamol tràn lan trong siêu thị là một việc làm vô trách nhiệm.
Ông Bill Scott, Chủ tịch dược sĩ đoàn bang Victoria nhấn mạnh các doanh nghiệp bán lẻ phải biết là thuốc giảm đau nếu dùng không đúng cách sẽ gây hậu quả nguy hiểm, đồng thời không nên tiếp thị Paracetamol như tiếp thị. kẹo. Thế nhưng đến nay, có lẽ do tỷ lệ tử vong vì Paracetamol quá ít nên chính phủ Úc vẫn làm ngơ trước đề nghị không cho bán Paracetamol trong siêu thị.
Các loại thuốc không nên dùng cùng vitamin E
2013-11-22 18:58
Vitamin E có tác dụng chống lão hóa, cải thiện khả năng miễn dịch, hỗ trợ quá trình điều trị bệnh cholesterol trong máu cao, xơ cứng động mạch, hội chứng tiền mãn kinh…. Tuy nhiên, hiệu quả của vitamin E cũng sẽ bị giảm nếu dùng với 1 trong 5 loại thuốc sau
1. Aspirin
Vitamin E và aspirin đều có thể làm giảm độ nồng độ máu, khi cùng sử dụng cần có sự đồng ý và điều chỉnh của bác sũ theo tình hình cụ thể của người bệnh.
2. Vitamin K
Vitamin E có tác dụng đối kháng với vitamin K, có thể ức chế sự kết tụ tiểu cầu, giảm đông máu. Vì vậy không nên đồng thời sử dụng hai loại vitamin cùng lúc.
3. Digitalis (mao địa hoàng)
Vitamin E có thể tăng cường tác dụng của digitalis với tim. Người đang điều trị khi sử dụng digitalis nên hết sức thận trọng nếu cần dùng vitamin E để tránh gây tình trạng ngộ độc digitalis.
4. Neomycin
Neomycin có thể ảnh hưởng đến sự hấp thụ chất béo đồng thời ảnh hưởng đến sự hấp thụ vitamin E, khi cùng sử dụng sẽ làm giảm vai trò của cả hai loại thuốc.
5. Estrogen
Sử dụng vitamin E liều cao hơn 400mg trong thời gian dài, đặc biệt khi kết hợp cùng estrogen có thể gây ra huyết khối, cần hết sức thận trọng.
Viện trừ muỗi trong mùa hè chứa chất gì?
2013-11-21 19:18Hãng Zoecon đã sản xuất viên trừ muỗi có chứa chất mêtôpren dưới tên thương phẩm Altosid, hoà tan được trong nước và đã thử thuốc này trong mùa hè từ năm 1976. Trong năm 1977, hãng này tiến hành thí nghiệm mở rộng để nhanh chóng đưa vào sản xuất trên quy mô công nghiệp. Viên Altosid được dùng ở những nơi muỗi sinh sản như cống rãnh, nước thối, mà ở đó không thể diệt muỗi bằng phương pháp phun thông thường.